Khó có thể thấy người Nhật Bản ngồi ở vị trí hàng đầu trong các show thời trang của Gucci và Chanel.
Crazy Rich Asians, show truyền hình ăn khách của Mỹ cuối năm 2018, hay series đình đám của Netflix Bling Empire (Đế chế phô trương) đều có điểm chung là lựa chọn những con nhà siêu giàu ở Singapore hay Trung Quốc làm nhân vật chính.
Theo Dominic Carter, hình ảnh về người châu Á trên phim ảnh đã có hành trình thay đổi lâu dài trong vài thập kỷ. Từ những người lao động chăm chỉ nhưng chịu thiệt thòi, người châu Á siêu giàu và dám "đốt tiền" trở thành biểu tượng mới.
Trong khi giới nhà giàu các nước Trung Quốc hay Singapore được khắc họa với hình ảnh sang chảnh trên truyền thông, không có đại diện nào của Nhật Bản xuất hiện trong các bộ phim về giới siêu giàu châu Á. Thực tế, người Nhật luôn giữ kín sự giàu có của mình.
Giàu có lén lút
Trên màn ảnh, nhiều người giàu gốc Á không thèm suy nghĩ đã chi rất nhiều tiền vào những thứ xa hoa như túi xách, trang sức hàng hiệu phiên bản giới hạn, có giá tương đương GDP của một quốc gia nhỏ.
Lấy bối cảnh chủ yếu ở Singapore, bộ phim Crazy Rich Asisans ghi lại cuộc sống của giới siêu giàu ở những resort sang trọng đến các khu nghỉ mát nhiệt đới và nhiều bữa tiệc xa hoa, tạo nên hình ảnh về một lối sống sang chảnh điên cuồng.
Người Singapore siêu giàu không phải hiếm. Theo dữ liệu, cứ 30 người Singapore thì có một người là triệu phú. Quốc đảo nhỏ bé của châu Á vào danh sách những quốc gia có số lượng cá nhân sở hữu giá trị tài sản ròng cao nhất (HNWI).
Theo định nghĩa, HNWI (High-net-worth individual) bao gồm bất kỳ ai có 1 triệu USD trong tài sản có thể đầu tư.
Trung Quốc, quốc gia có nhiều người giàu có trong danh sách 100 người giàu nhất thế giới của Forbes, đứng thứ hai trong bảng xếp hạng HNWI ở châu Á.
Việc nhiều phú nhị đại (thế hệ giàu có thứ hai) phô trương sự giàu có đến khó tin trên mạng xã hội khiến nhiều người thậm chí tin Trung Quốc đứng đầu thế giới về tài sản có tính thanh khoản.
Trong khi Trung Quốc xếp thứ 2, Nhật Bản là đất nước có nhiều HNWI nhất châu Á và đứng thứ 2 thế giới, chỉ đứng sau Mỹ. Trên thực tế, cứ 17 hộ gia đình ở Nhật thì có một người sở hữu tài sản ròng trên 1 triệu USD.
Vào năm 2017, HNWI của Nhật Bản trị giá khoảng 2,5 triệu USD và tổng tài sản là 7,7 nghìn tỷ USD. Con số này ở Trung Quốc là 6,5 nghìn tỷ USD.
Dù Nhật Bản là nước có nhiều người giàu nhất châu Á, bộ phim Crazy Rich Asians có nhiều lý do để không chọn nước này làm bối cảnh. Giống như Nick Young (nhân vật chính trong phim), một con nhà siêu giàu được dạy phải luôn khiêm tốn, người Nhật Bản cũng từ chối phô trương sự giàu có của mình.
Thực tế, những người giàu ở Nhật có lối sống, cách tiêu dùng và phong cách ăn mặc giống với đa số người bình thường thuộc tầng lớp trung lưu. Việc che giấu sự giàu có khiến giới thượng lưu Nhật Bản được các phương tiện truyền thông gọi bằng cái tên "những người giàu có lén lút".
Tránh phô trương
Trong quá khứ, Nhật Bản từng là quốc gia giàu nhất thế giới. Trong thời kỳ bong bóng kinh tế của Nhật Bản những năm 1986-1991, việc nhà giàu phô trương hàng hiệu, đốt tiền và du lịch sang chảnh phổ biến hơn hiện nay.
Khi bong bóng kinh tế vỡ vào đầu những năm 1990, được gọi là thập kỷ mất mát, nền kinh tế suy thoái khiến cuộc sống hào nhoáng cũng vỡ tan như giấc mộng đêm hè. Nhiều gia đình phải thắt chặt chi tiêu.
Trong khi GDP của Nhật Bản đã tăng 7% trong 5 năm qua dưới các chính sách của chính phủ, tiền lương trên thực tế của người lao động đã giảm 4%. Tuy nhiên, từ năm 2010 đến 2017, khối tài sản của các HNWI đã tăng 87%.
Nói cách khác, HNWI là những người hưởng lợi, vì vậy họ không phô trương những gì mình có. Một lý do khác là họ che giấu sự giàu có để giữ cho xã hội hài hòa, điều này tốt hơn cho mọi người.
Nhiều người giàu ở các nước châu Á khác thường trở thành đối tượng bị thúc đẩy mua hàng xa xỉ, ví dụ vị trí hàng đầu trong các show thời trang của Gucci và Chanel. Bạn sẽ khó bắt gặp một người Nhật ngồi ở vị trí này.
Người giàu Nhật Bản đang đầu tư vào các lĩnh vực rất khác nhau.
Nghiên cứu của Dominic Carter cho thấy thế hệ già yếu của Nhật Bản (được gọi là thế hệ Dankai, từ 65 đến 69 tuổi) thích tận hưởng cuộc sống lành mạnh và thuận tiện sau khi nghỉ hưu. Họ cũng quan tâm đến dịch vụ chăm sóc y tế hàng đầu, tu sửa nhà sang trọng và du lịch nghỉ dưỡng.
Thế hệ kế cận là Dankai Junior (sinh từ năm 1970 đến 1979) thích đầu tư vào sức khỏe và tương lai của họ.
Thế hệ này tập trung vào việc chi tiêu nhiều cho sức khỏe và thực phẩm hữu cơ nhập khẩu, giáo dục cho bản thân và con cái, đầu tư vào bất động sản, bảo hiểm, du lịch, làm đẹp và mỹ phẩm theo xu hướng hữu cơ và lành mạnh.
NDH
Mối liên hệ giữa giá cả tăng và thu nhập người dân tăng không hề tồn tại ở Nhật Bản.
Lạm phát tại nhiều quốc gia thành viên G7 hiện đang cao nhất nhiều năm. Nhưng trong khi lạm phát tại Mỹ và Anh lần lượt chạm ngưỡng hơn 8% và 9%, cao nhất nhiều thập kỷ, thì tại Nhật Bản, lạm phát cao cũng chỉ dừng lại ở 2,5%.
Trong khi Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) và Ngân hàng trung ương Anh (BoE) đã hòa mình vào cuộc chạy đua lãi suất toàn cầu, Nhật Bản vẫn chưa hề thay đổi chính sách tiền tệ của mình và vẫn mua vào lượng trái phiếu cần thiết để hỗ trợ nền kinh tế, khiến lợi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm của quốc gia này được giữ vững ở ngưỡng 0%.
Sự đối lập này được hình thành từ sự khác biệt cơ bản trong tâm lý lạm phát của Nhật Bản sau ba thập kỷ trì trệ. Dù Nhật Bản cũng phải đối diện với nhiều khó khăn giống như các quốc gia khác, đặc biệt là chi phí hàng hóa nhập khẩu tăng cao, mối liên hệ giữa giá cả tăng và thu nhập người dân tăng dường như không hề tồn tại.
Ngược lại, theo Masamichi Adachi, Kinh tế trưởng tại UBS Tokyo, tư tưởng giảm phát sẽ khiến tình hình rẽ theo một hướng khác. “Tại Nhật Bản, tình trạng tăng giá hàng hóa nhập khẩu có thể dẫn tới giảm phát. Đó là lý do lạm phát không phải là một vấn đề lớn tại đây”.
Tại Mỹ và châu Âu, các doanh nghiệp thường phản ứng lại với đà tăng giá nguyên liệu và hàng hóa bằng cách chuyển phần chi phí tăng thêm đó sang người tiêu dùng. Tuy nhiên, tại Nhật Bản, các doanh nghiệp lo sợ người tiêu dùng sẽ tẩy chay sản phẩm của mình nếu như họ tăng giá, trong khi đó, người lao động, sau một giai đoạn dài không có biến chuyển nhiều về mặt thu nhập, rất ngại yêu cầu tăng lương, điều giúp họ có thêm tiền chi trả cho phần giá cả hàng hóa tăng thêm.
Thêm nữa, trong trường hợp các doanh nghiệp phải chi trả chi phí hàng hóa nhập khẩu nhiều hơn nhưng không thể tăng giá bán lẻ, họ sẽ phải đối diện với thua lỗ. Họ thường phản ứng bằng cách cắt giảm chi phí nhân công, và cuối cùng giảm phát sẽ lên ngôi, chứ không phải lạm phát.
Theo dữ liệu công bố bởi chính phủ Nhật Bản trong ngày 20/5, chỉ số giá tiêu dùng tại Nhật Bản tăng 2,5% trong tháng 4 so với cùng kỳ năm 2021, trong khi chỉ số giá tiêu dùng cơ bản, không bao gồm chi phí thực phẩm, tăng nhanh nhất trong vòng 7 năm qua, chạm ngưỡng mục tiêu 2,1% của ngân hàng trung ương Nhật Bản (BoJ). Nhưng nếu loại bỏ đi chi phí lương thực và năng lượng, lạm phát tại Nhật chỉ còn 0,8%.
Đối với BoJ và nhiều chuyên gia, nhu cầu tiêu dùng trong nền kinh tế Nhật Bản đang rất yếu. Do đó, cơ quan này, với sự tự tin lớn hơn so với các ngân hàng trung ương khu vực châu Âu và Bắc Mỹ, kỳ vọng rằng lạm phát sẽ chỉ là hiện tượng tạm thời và sẽ nhanh chóng ‘hạ nhiệt” một khi tình trạng giá hàng hóa nhập khẩu tăng cao kết thúc.
Một vài yếu tố khác cũng giúp giải thích lý do lạm phát tại Nhật Bản thấp hơn so với tại các nền kinh tế phát triển khác, và tại sao các chuyên gia cho rằng lạm phát sẽ không kéo dài.
Đầu tiên, lạm phát tháng 4 không thống kê mức giảm cước viễn thông áp dụng dưới thời cựu Thủ tướng Yoshihide Suga trong năm 2021 . Điều đó có nghĩa rằng lạm phát thực tế thấp hơn so với con số đã được công bố.
Thứ hai, nền kinh tế Nhật Bản vẫn chưa phục hồi hoàn toàn so với trước đại dịch, dù quốc gia này chưa từng áp dụng các quy định phòng dịch nghiêm ngặt như nhiều quốc gia khác. Tuy có ít các quy định hạn chế hoạt động kinh tế, người dân quốc gia này vẫn rất thận trọng, dù phần lớn người cao tuổi tại quốc gia này đã được tiêm phòng Covid-19. Nhật Bản vẫn đang đóng cửa đối với khách du lịch. Điều này tác động mạnh tới chi tiêu tiêu dùng.
Thứ ba, đồng yen “yếu” từng là một yếu tố hỗ trợ nền kinh tế Nhật Bản, nhưng điều đó không còn nhiều tác dụng ở thời điểm hiện tại. Các doanh nghiệp lớn của Nhật Bản đã chuyển phần lớn chuỗi cung ứng của mình sang Trung Quốc. Nhu cầu các tư liệu sản xuất mà Nhật Bản xuất khẩu đang bị ảnh hưởng mạnh bởi đà đi xuống của nền kinh tế Trung Quốc.
“Ngoài tình trạng tăng giá hàng hóa, tác động từ các quy định phòng dịch tại Trung Quốc là rất nghiêm trọng, nhiều doanh nghiệp khó có thể gia tăng doanh thu trong năm nay”, theo Kiichi Murashima, Chuyên gia kinh tế Nhật Bản tới từ Citi Group. “Các doanh nghiệp cũng nhận định đà giảm giá của đồng yên là ngắn hạn và không muốn gia tăng chi phí cố định (bằng cách tăng lương cho người lao động)”.
BoJ tự tin rằng lạm phát tại Nhật Bản sẽ sớm giảm và điều họ cần làm là hỗ trợ nền kinh tế. “Lạm phát là do giá năng lượng tăng cao, do đó, thiếu đi tính bền vững”, theo Thống đốc BoJ Haruhiko Kuroda. “Kỳ vọng lạm phát trung và dài hạn không tăng mạnh”, ông nói.
“Tôi muốn một lần nữa nhấn mạnh rằng tình hình hiện tại của nền kinh tế Nhật Bản hoàn toàn khác biệt so với Mỹ và châu Âu”, ông chia sẻ.
NDH
Bạn có thông tin gì mới không?